Trong lịch sử hàng nghìn năm của Việt Nam thì phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào sớm nhất và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống và văn hóa của người Việt xưa và nay. Cũng trong dòng lịch sử đó, có hàng trăm hàng nghìn ngôi chùa cổ đã và vẫn đang tồn tại hàng trăm năm cho tới ngày nay. Như một bằng chứng lịch sử còn lưu lại để cho những hậu thế sau này có cái để nhìn và hiểu về phật giáo xưa ở Việt Nam nói riêng, rộng hơn là văn hóa và kiến trúc của Việt Nam xưa nói chung.
Ở bài viết này Nhà Kẻ Truyền xin giới thiệu tới các bạn về một ngôi chùa cổ vô cùng đặc biệt của thủ đô Hà Nội. Ngôi chùa này hiện nay vẫn còn giữ được nhiều nét kiến trúc vô cùng độc đáo mà tiền nhân đã xây dựng. Và chúng ta cùng tìm hiểu những điểm đặc biệt trong kiến trúc của chùa Bằng “Linh Tiên Tự” này nhé.
PHẦN THÔNG TIN GIỚI THIỆU CỦA CHÙA BẰNG
Chùa Bằng – Linh Tiên Tự với bề dày lịch sử hoằng pháp độ sinh của chư Tổ trong quá khứ và sự tiếp nối của chư Tăng hiện tại đã hoà cùng không gian thoáng đãng của quê hương “Bằng Liệt nghĩa dân”, bên đền thờ Tiên Triết Chu Văn An – nhà sư phạm mẫu mực có công lớn trong sự nghiệp giáo dục thời Trần cùng với di tích miếu Thành Hoàng thờ đức Thánh Bảo Ninh Vương đã tạo nên một danh lam thắng cảnh địa phương góp phần tô đẹp lịch sử văn hoá Thăng Long – Hà Nội.
Chùa Bằng “Linh Tiên Tự” nổi tiếng với ngôi tháp Báo Ân:
Tháp Báo Ân được xây dựng theo mẫu thiết kế của các kiến trúc sư Việt Nam nổi tiếng và có tham khảo ý kiến của kiến trúc sư Nhật Bản. Bảo tháp được xây dựng trên nguyên tắc kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam. Công trình bảo tháp được xây dựng bởi ba tốp thợ:
Công ty Vinaconex II là đơn vị thi công phần thô.
Tháp được kết hợp với sự trang trí hoa văn và họa tiết khéo léo của bàn tay các nghệ nhân xứ Huế.
Cũng như sự tinh xảo bởi các thợ đúc đồng Ý Yên – Nam Định.
Các chi tiết bệ tượng, cột đá, lan can tháp được trang trí bởi nhóm thợ đá giỏi của huyện Ý Yên –Nam Định.
Sự hiện hữu của bảo tháp Báo Ân là kế thừa ý nghĩa của tháp Báo Thiên thời Lý (một trong An Nam tứ đại khí, do Thiền sư Không Lộ đúc, bao gồm: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm (tượng Di Lặc) và vạc Phổ Minh. Rất tiếc hiện nay những Bảo vật ấy không còn tìm thấy).
Bảo tháp xây dựng theo hình bát giác (theo giáo lý Bát Chính đạo). Cửa tháp mở ra theo 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xem Thêm: Các công trình Đình Chùa do Nhà Kẻ Truyền xây dựng
Về kiến trúc bảo tháp Báo Ân:
– Phần móng: độ sâu 45m bởi 9 trụ đỡ, mỗi trụ đường kính 1m.
– Phần thân: tháp cao 45m, tượng trưng cho 45 năm thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
– Phần ngọn: đúc bằng đồng nặng 1300kg, cao 9,66m.
Từ mặt nền, lên đỉnh tháp cao 54,66m.Tháp gồm 13 tầng theo phẩm Phú chúc, kinh Niết bàn. 8 cột trụ ngoài của tháp đều được làm bằng đá, chạm theo hình long phượng, tượng trưng cho khí âm dương hòa hợp.
– Tổng diện tích khu vực tháp là 1500m2 sân, được lát bằng đá xanh Thanh Hóa.
2. Vườn chùa hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và các sư giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính Tuyên; Tháp Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển.
3. Toà thượng điện là công trình chính của chùa (thượng điện hay chính điện thờ Tam bảo). Trong quá trình trùng tu đã phát hiện cách xây dựng độc đáo của tiền nhân với hệ thống “móng treo” rất đặc biệt, bên trong lòng móng có hàng trăm viên gạch “vồ” của thế kỷ 15, 16 .Tuy năm 1945 có trùng tu lại sau khi bị chiến tranh nhưng đó chỉ thay phần mái gỗ lợp ngói thành bê tông còn hệ thống tường móng giữ nguyên của đợt đại trùng tu theo bia “Linh Tiên tự ký” (tạo năm 1654). Hiện nay rất ít công trình kiến trúc đình đền chùa miếu còn loại gạch móng như ở chùa này.
4. Nhà thờ Tổ được tạo dựng bằng gỗ lim. Ngôi nhà này cũng giữ được vẻ độc đáo còn lại ở Việt Nam với hệ thống 6 hàng cột.
5. Tấm bia “Linh Tiên tự ký” được khắc ngày 13 tháng 2 năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 Triều Lê Thần Tông (năm 1654) do pháp sư Tự Ngọc Bảo, người huyện Tiên Du – Bắc Ninh soạn với bút tích của Hoà thượng Pháp Ấn quê làng Phù Lãng, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Nội dung ghi công đức của ông,bà Ngô Vĩnh Đăng, Lưu Thị Lý phát tâm làm chùa.
6. Thống đá dùng ngâm gạo làm oản cúng Phật. Trên thân thống được khắc chữ “Tâm” to, dưới viết các bài kệ dạy đệ tử tỏ ngộ tâm tông của Phật tổ do Thiền sư Bất Trược Thủy – Tự Như Liên soạn, đặc biệt là bài:
“Dũng trung tịnh thuỷ nguyệt ảnh tiềm
Nhân nhân bả trốc bất hội nguyên
Nhược nhân ngộ đắc chân như tính
Thượng kiến Như Lai phúc tuệ viên”
Tạm dịch:
Trong thống nước thanh tịnh, trăng chìm
Cội nguồn chẳng biết đi tìm uổng công
Chân như ai ngộ tính không
Vê tròn phúc tuệ nối dòng Như Lai.
Trên thống ghi niên đại tạo tác vào mùa Hạ niện hiệu Bảo Thái thứ 4 triều vua Lê Dụ Tông (Quý Mão – 1723) do người xã Phù Ủng, huyện Đường Hào – Hồng Phủ (Hải Dương) cúng.
7. Hai tấm bia đá tạo dựng năm Long Đức thứ 3 – Giáp Dần (1734) ghi lại cộng đức của thiền sư Tự Tính Tuyên trụ trì chùa Bằng Liệt và Quang Ân (Thanh Liệt) đã phát tâm xây dựng cầu đá Quang Bình để nhân dân thuận tiện qua lại (Cầu bê tông phía trước chùa hiện nay là hậu thân của cầu đá Quang Bình khi xưa).Tấm bia này hiện đang bảo quản tại chùa Long Quang – xã Thanh Liệt – huyện Thanh Trì.
8. Đại hồng chung (chuông chiêu mộ): được đúc tháng 6 niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 triều Nguyễn – Đinh Dậu (1837). Đây là quả chuông (đương thời) to nhất vùng được nhân dân ca ngợi qua câu: “chuông Bằng, trống Lủ, mõ Đình Công, cồng làng Sét”, trên chuông ghi công đức của các hội và tín chủ cúng dàng dưới sự chủ trì của thiền sư Phổ Siêu.
9. Tấm bia khắc ngày 13 tháng 12 năm Quý Tỵ (1954) ghi lại đợt trùng tu toà chính điện do tỉnh trưởng Hà Đông Nguyễn Văn Thanh chủ lễ đặt viên đá đầu tiên.
Với sự yêu mến dành cho kiến trúc những ngôi chùa cổ tại Việt Nam, chúng tôi rất mong những bài viết với hình ảnh và thông tin về các ngôi chùa cổ giống như ngôi chùa Bằng sẽ nhận được sự đón nhận và góp ý từ quý vị đọc giả, để những thông tin chúng tôi được chỉnh sửa chính xác hơn và ngày càng nâng cao chất lượng những bài viết tới với quý đọc giả.